(ĐCSVN) - Theo Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý II và 6 tháng đầu năm 2021 của Tổng cục Thống kê, mặc dù lao động, việc làm quý II/2021 chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, song tính chung 6 tháng đầu năm 2021, lao động đang làm việc trong nền kinh tế vẫn tăng so với cùng kỳ năm trước, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động giảm và thu nhập của người làm công hưởng lương tăng.
6 tháng đầu năm 2021, lao động đang làm việc trong nền kinh tế vẫn tăng
so với cùng kỳ năm trước
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước quý II/2021 ước tính là 51,1 triệu người, tăng 44,7 nghìn người so với quý trước và tăng 1,7 triệu người so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 51 triệu người, tăng 737,7 nghìn người so với cùng kỳ năm 2020. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động quý II/2021 ước tính là 45,1 triệu người, giảm 50,2 nghìn người so với quý trước và tăng 823,6 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2021, lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là 45,2 triệu người, giảm 90,8 nghìn người người so với cùng kỳ năm trước.
Lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc quý II/2021 ước tính 49,8 triệu người. Tính chung 6 tháng đầu năm 2021, lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc là 49,9 triệu người, bao gồm 13,9 triệu người đang làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 27,9% tổng số, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước; khu vực công nghiệp và xây dựng 16,4 triệu người, chiếm 32,8%, tăng 0,5%; khu vực dịch vụ 19,6 triệu người, chiếm 39,3%, tăng 2,4%.
Tỷ lệ thất nghiệp chung cả nước 6 tháng đầu năm ước tính là 2,30% (quý I là 2,19%; quý II là 2,40%), trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 3,07%; khu vực nông thôn là 1,86%. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi 6 tháng ước tính là 2,52% (quý I là 2,42%; quý II là 2,62%), trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 3,28%; khu vực nông thôn là 2,07%.
Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) 6 tháng ước tính là 7,45%, trong đó khu vực thành thị là 9,97%; khu vực nông thôn là 6,22%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý I/2021 là 2,20%; quý II là 2,60%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2021, tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi ước tính là 2,58%, trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 2,64%; tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn là 2,54%.
Những con số thống kê về tình hình lao động, việc làm quý II/2021 đã phản ánh những khó khăn và biến động của nền kinh tế nói chung và thị trường lao động Việt Nam nói riêng trong thời gian qua.
Trước tình hình đó, Tổng cục Thống kê đã đề xuất một số giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho thị trường lao động trong bối cảnh đại dịch vẫn còn diễn biến khó lường. Theo đó, tiếp tục thực hiện kiên định mục tiêu kép, vừa quyết liệt phòng chống dịch hiệu quả, vừa tháo gỡ khó khăn cho cộng đồng doanh nghiệp và người lao động. Đẩy nhanh tốc độ tiêm vắc xin để đạt được miễn dịch cộng đồng, đặc biệt ưu tiên cho các lao động tuyến đầu, lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất để duy trì sản xuất, ngăn chặn tình trạng đứt gãy chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu.
Công nhân Khu Công nghiệp và chế xuất Hà Nội làm việc trong điều kiện phòng,
chống dịch COVID - 19
Song song với đó là chủ động và tích cực triển khai hiệu quả 12 chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 theo đúng tinh thần của Nghị quyết 68/NQ-CP ngày 01/7/2021. Ưu tiên chú trọng thực hiện tốt chính sách hỗ trợ cho người lao động tạm hoãn hợp đồng, nghỉ việc không lương, ngừng việc, chấm dứt hợp đồng và hỗ trợ đào tạo duy trì việc làm cho người lao động.
Đồng thời, có các chương trình, chính sách khuyến khích thanh niên và lao động trẻ, đặc biệt là những người không có việc làm, không tham gia học tập đào tạo tích cực học tập nâng cao trình độ để sẵn sàng chủ động gia nhập thị trường lao động với hành trang là các kỹ năng cần thiết đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế trong thời đại kỷ nguyên số 4.0.
Ngoài ra, nâng cao vai trò của hệ thống Trung tâm dịch vụ việc làm trên cả nước nhằm tăng cường kết nối cung – cầu lao động, tạo niềm tin cho người lao động về cơ hội có việc làm, rút ngắn thời gian tìm việc của người lao động, thời gian tuyển dụng của người sử dụng lao động, tăng tỷ lệ tham gia lực lượng lao động, góp phần tăng trưởng và giải quyết việc làm cho người lao động.
Bên cạnh đó, tập trung hỗ trợ nhiều hơn đến đối tượng yếu thế trong xã hội (công nhân, buôn bán nhỏ, lao động phi chính thức…) vì đây là những đối tượng dễ bị tổn thương khi việc thực hiện giãn cách xã hội, bằng những hỗ trợ thiết thực; để giảm thiểu những tác động tiêu cực về mặt xã hội (tệ nạn xã hội, trộm cắp)./.